Lịch sử Sumer

Các thành bang Sumer xuất hiện từ giai đoạn tiền sử Ubaid và Uruk. Lịch sử được ghi chép của người Sumer có từ trước thế kỷ 27 TCN, nhưng tư liệu khảo cổ vẫn còn mơ hồ cho tới đầu giai đoạn Sơ kỳ triều đại III (khoảng thế kỷ 23 TCN) khi một hệ thống chữ viết âm tiết cổ ra đời cho phép các nhà khảo cổ đọc được những tư liệu và văn bản lịch sử thời kỳ này. Sumer cổ đại kết thúc với sự trỗi dậy của Đế chế Akkad ở thế kỷ 23 TCN. Tiếp theo giai đoạn Guti, có một thời kỳ Phục hưng Sumer ngắn ở thế kỷ 21 TCN trước khi bị tộc người Semit Amorite xâm lược. "Triều đại Isin" của người Amorite tồn tại tới khoảng năm 1700 TCN khi cuối cùng Lưỡng Hà được thống nhất dưới sự cai trị của Babylonia. Người Sumer dần dần bị đồng hóa với người Akkad.

  • Giai đoạn Ubaid: 5300–4100 TCN (đồ gốm Đồ đá mới tới Đồ đồng đá)
  • Giai đoạn Uruk: 4100–2900 TCN (Cuối Đồ đồng đá tới Đồ đồng mới I)
  • Giai đoạn Sơ kỳ triều đại (Đồ đồng mới II-IV)
    • Giai đoạn Sơ kỳ triều đại I: 2900–2800 TCN
    • Giai đoạn Sơ kỳ triều đại II: 2800–2600 TCN
    • Giai đoạn Sơ kỳ triều đại IIIa: 2600–2500 TCN
    • Giai đoạn Sơ kỳ triều đại IIIb: khoảng 2500–2334 TCN
  • Giai đoạn Đế chế Akkad: khoảng 2334–2218 TCN
  • Giai đoạn Guti: khoảng 2218–2047 TCN (Đầu thời kỳ đồ đồng IV)
  • Giai đoạn Ur III: khoảng 2047–1940 TCN

Nguồn gốc

Nhân chủng học của người Sumer

Phần lớn các nhà sử học cho rằng Sumer có người định cư đầu tiên từ k. 5500 đến 4000 TCN bởi một nhóm người Tây Á nói tiếng Sumer (thể hiện ở tên của các thành phố, dòng sông, nghề nghiệp cơ bản...).[15][16][17][18][19] Người Sumer là giống người phi Semit, và nói một ngôn ngữ cô lập; một số nhà ngôn ngữ tin rằng có thể tìm thấy dấu vết của một ngôn ngữ nền cổ bên dưới tiếng Sumer, bởi vì tên của một số thành phố lớn của Sumer không phải là tiếng Sumer, cho thấy ảnh hưởng của những dân cư sống từ trước đó.[20] Tuy nhiên, bằng chứng khảo cổ cho thấy sự tiếp nối rõ ràng, không bị ngắt quãng từ thời Tiền giai đoạn Ubaid (5300–4700 TCN) của những khu định cư phía nam Lưỡng Hà. Người Sumer định cư ở đây canh tác trên những mảnh đất trong vùng đã được họ làm màu mỡ bằng trầm tích phù sa hai con sông TigrisEuphrates.[21]

Những người nông dân đầu tiên từ Samarra di cư tới Sumer, và xây dựng các đền thờ cùng các khu định cư tại Eridu.

Những học giả khác đề xuất rằng người Sumer là một nhóm người Bắc Phi, di cư từ Sahara thời chưa hoang hóa đến Trung Đông, và đưa canh tác nông nghiệp tới khu vực này.[22] Lazaridis et al. (2016) mặc dù không nhắc đến người Sumer nhưng cho rằng văn hóa tiền Semit ở Trung Đông có nguồn gốc Bắc Phi.[23] Mặt khác, một số phân tích gần đây về mẫu gen từ hài cốt người Lưỡng Hà cổ đại cho thấy người Sumer có thể có liên quan với người Ấn Độ, hoặc là ít nhất một phần trong số họ có liên quan đến người Dravidia ở Ấn Độ.[24]

Những người tiền sử này hiện được gọi là "người tiền-Euphrates" hay "người Ubaid",[25] và được cho là đã phát triển từ văn hóa Samarra ở phía bắc Lưỡng Hà.[26][27][28][29] Người Ubaid, dù không được nhắc tới trong các văn bản Sumer, được cho là nhóm dân cư văn minh đầu tiên tại Sumer. Họ đã biết thoát nước các đầm lầy để làm nông nghiệp, phát triển thương mại và các ngành công nghiệp bao gồm kéo sợi, thuộc da, gia công kim loại, nghề nề và làm gốm.[25]

Một số học giả bác bỏ ý tưởng về một ngôn ngữ tiền-Euphrates hay một ngôn ngữ nền; họ cho rằng ngôn ngữ Sumer ban đầu là ngôn ngữ của những người săn bắn và đánh cá sống tại vùng đầm lầy và ven biển phía đông Ả Rập và là một phần của nền văn hóa rìu đá mài hai mặt Ả Rập.[30] Các sử liệu đáng tin cậy có niên đại muộn hơn nhiều và không có dấu tích nào có từ trước thời Enmebaragesi (k. thế kỉ 26 TCN). Juris Zarins tin rằng người Sumer sống ở dọc bờ biển Đông Ả Rập, vịnh Ba Tư ngày nay, trước khi khu vực bị ngập vào cuối kỷ Băng hà.[31]

Thành phố Eridu trên bờ biển vịnh Ba Tư được xem là một trong những thành phố đầu tiên trên thế giới, là nơi dung hợp ba nền văn hóa khác nhau: những người nông dân Ubaid sống trong những ngôi nhà xây bằng gạch bùn và biết làm nông nghiệp thủy lợi; người chăn thả du mục Semit sống trong lều trại màu đen và đi theo các đàn cừu hay dê; và những người đánh cá sống trong lều bằng sậy tại các đầm lầy, tất cả họ đều có thể là tổ tiên của người Sumer.

Bát Samarra, tại Bảo tàng Pergamonm, Berlin. Chữ Vạn ở giữa là được phục chế.[32]

Giai đoạn Ubaid

Giai đoạn Ubaid được đánh dấu bằng một phong cách riêng biệt với sự xuất hiện của đồ gốm có màu chất lượng cao lan rộng khắp Lưỡng Hà và vịnh Ba Tư. Trong thời gian này, khu định cư đầu tiên ở nam Lưỡng Hà được thành lập tại Eridu khoảng năm 5300 TCN bởi những người đến từ văn hóa Hadji Muhammed. Nền văn hóa này có vẻ như xuất phát từ văn hóa Samarra từ phía bắc Lưỡng Hà. Chưa rõ liệu đây có phải là những người Sumer gắn với văn hóa Uruk sau này hay không. Eridu vẫn tiếp tục là một trung tâm tôn giáo quan ngay cả sau khi nó dần bị vượt qua về kích cỡ bởi thành phố Uruk lân cận. Truyền thuyết về các me (những nền tảng của văn minh) được vị thần trí tuệ Enki của Eridu trao cho nữ thần Inanna của Uruk có thể phản ánh sự dịch chuyển quyền lực nói trên.[33]

Giai đoạn Uruk

Bài chi tiết: Uruk
Con dấu hình trụ của thời kỳ Uruk và bản ấn, k.3100 TCN. Bảo tàng Louvre.

Sự chuyển tiếp khảo cổ từ giai đoạn Ubaid tới giai đoạn Uruk được đánh dấu bởi sự chuyển đổi từ đồ gốm vẽ màu làm tại nhà bằng bàn xoay chậm sang đồ gốm không màu được sản xuất hàng loạt bởi thợ thủ công chuyên nghiệp bằng bàn xoay tốc độ cao hơn.

Tới thời điểm giai đoạn Uruk (khoảng 4100–2900 TCN), hàng hóa trao đổi được vận chuyển dọc theo những con kênh đào và sông phía nam Lưỡng Hà với khối lượng lớn đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự trỗi dậy của nhiều thành bang lớn có giai cấp với trung tâm là đền thờ và dân số hơn 10,000 người. Đồ thủ công và các thuộc địa của văn hóa Uruk đã được tìm thấy trên một khu vực rộng lớn — từ dãy núi TaurusThổ Nhĩ Kỳ cho tới Địa Trung Hải ở phía tây, và xa về phía đông tới tận Trung Iran.[34]

Văn hóa Uruk được lan tỏa bởi các thương nhân và thực dân Sumer, có ảnh hưởng lớn đến những dân tộc xung quanh, hình thành nên các nền văn hóa và kinh tế cạnh tranh tương tự. Dần dần các thành bang Sumer để mất sự kiểm soát bằng vũ lực với các thuộc địa ở xa.[34]

Các thành bang Sumer thời Uruk có thể theo chế độ thần quyền và được cai trị bởi một vị vua tu sĩ (ensi), giúp việc bởi một hội đồng nguyên lão gồm cả nam giới và nữ giới.[35] Nhiều khả năng là hệ thống thần linh sau này của Sumer dựa theo mô hình chính trị này. Có ít bằng chứng về chiến tranh có tổ chức hay những binh sĩ chuyên nghiệp trong giai đoạn Uruk, và các thành thị nhìn chung đều có tường bao. Trong giai đoạn này Uruk trở thành thành phố có mức độ đô thị hóa cao nhất trên thế giới, là nơi đầu tiên có dân số vượt quá 50.000 người.

Danh sách những vị vua Sumer gồm cả những Triều đại đầu tiên của nhiều thành bang nổi tiếng từ giai đoạn này. Những cái tên đầu tiên trên danh sách là những vị vua được cho là đã cai trị trước trận đại hồng thủy, có thể là nhân vật hư cấu hoặc huyền thoại như Alulim và Dumuzid.[36]

Giai đoạn Sơ kỳ triều đại

Mũ trụ bằng vàng của Meskalamdug, có thể là người sáng lập Vương triều Ur đầu tiên, thế kỷ 26 TCN.

Giai đoạn Sơ kỳ triều đại bắt đầu khoảng năm 2900 TCN, gắn liền với việc chuyển đổi quyền lực từ đền thờ sang các lãnh tụ thế tục hơn là Lugal (Lu = ông, Gal = lớn), bao gồm những nhân vật huyền thoại như Enmerkar, Lugalbanda và Gilgamesh. Những ghi chép lịch sử bắt đầu khoảng năm 2700 TCN, khi mà hệ thống âm tiết mã hóa bắt đầu phát triển từ chữ tượng hình sơ khai. Trung tâm văn hóa của Sumer vẫn ở phía nam Lưỡng Hà, dù những nhà cai trị đã sớm bắt đầu bành trướng tới những vùng xung quanh, và các dân tộc Semit đã tiếp thu phần lớn văn hóa Sumer.

Vị vua đầu tiên trong danh sách vua Sumer có tên cũng được nhắc đến trong các nguồn huyền thoại khác là Etana, vị vua thứ 13 của Triều đại thứ nhất của Kish. Vị vua đầu tiên khảo chứng được là Enmebaragesi của Kish (khoảng thế kỷ 26 TCN), tên của ông cũng được đề cập đến trong Sử thi Gilgamesh, dẫn tới suy đoán rằng chính Gilgamesh là một vị vua có thật của Uruk. Như Sử thi Gilgamesh cho thấy, giai đoạn này gắn liền với chiến tranh leo thang. Các thành bang được xây tường bao và gia tăng về kích cỡ trong khi những làng mạc không được bảo vệ ở phía nam Lưỡng Hà dần biến mất. (Cả Enmerkar và Gilgamesh đều được gắn với việc xây dựng tường thành Uruk[37]).

Triều đại thứ nhất của Lagash

Bài chi tiết: Lagash
Mảnh bia chim kền kền của Eannatum

Khoảng 2500–2270 TCN.

Triều đại của Lagash, mặc dù không có trong danh sách vua Sumer, đã được chứng thực qua một số đền đài quan trọng và nhiều phát hiện khảo cổ.

Dù có thời gian tồn tại ngắn, một trong những đế chế đầu tiên được biết đến trong lịch sử là đế chế Eannatum của Lagash, người trên thực tế đã thống nhất toàn bộ Sumer, gồm cả Kish, Uruk, Ur, và Larsa, và bắt thành bang Umma, một đối thủ lớn của Lagash, phải thần phục. Thêm vào đó, vương quốc của ông mở rộng tới một số vùng của Elam và dọc theo vịnh Ba Tư. Ông nổi tiếng với chính sách khủng bố kẻ thù một cách tàn bạo. Tấm bia chim kền kền còn tồn tại khắc họa cảnh thi thể quân địch của Eannatum bị đàn kền kền rỉa xác.[38] Đế chế của ông sụp đổ một thời gian ngắn sau khi ông qua đời.

Sau này, Lugal-Zage-Si, vị vua tu sĩ của Umma, đã lật đổ sự thống trị của Triều đại Lagash rồi chinh phục Uruk và định đô ở đó, xác lập một đế chế trải dài từ vịnh Ba Tư tới Địa Trung Hải. Ông là vị vua cuối cùng người Sumer trước Sargon của Akkad.[21]

Đế chế Akkad

Bài chi tiết: Đế quốc Akkad

Khoảng 2270 đến 2083 TCN.

Ngôn ngữ Đông Semit, tiếng Akkad, lần đầu được xác thực qua tên của các vị vua Kish k. 2800 TCN[39] trong những danh sách vua sau này. Có những văn bản được viết hoàn toàn bằng tiếng Akkad có niên đại từ khoảng năm 2500 TCN. Việc sử dụng tiếng Akkad cổ phổ biến nhất ở thời Sargon Đại đế (k. 2270–2215 TCN), nhưng hầu hết các văn bản hành chính tiếp tục được viết bằng tiếng Sumer, ngôn ngữ được sử dụng bới các kinh sư. Gelb và Westenholz phân biệt ba giai đoạn của tiếng Akkad cổ: giai đoạn thời kỳ tiền Sargon, giao đoạn đế chế Akkad, và giai đoạn "Phục hưng Sumer" tiếp theo nó. Tiếng Akkad và tiếng Sumer cùng tồn tại như các ngôn ngữ bản địa trong khoảng một nghìn năm, nhưng vào khoảng năm 1800 TCN, tiếng Sumer dần chỉ còn là thứ ngôn ngữ văn chương chủ yếu được sử dụng bởi các học giả và kinh sư. Thorkild Jacobsen cho rằng có ít sự gián đoạn trong tính tiếp nối lịch sử giữa các giai đoạn tiền và hậu Sargon, và các nghiên cứu nhấn mạnh quá mức vào quan niệm Semit xung đột với Sumer".[40] Tuy nhiên, có thể chắc chắn rằng tiếng Akkad đã được áp đặt một thời gian ngắn tại các vùng lân cận của Elam bị chinh phục trước đó bởi Sargon.

Giai đoạn Guti

Khoảng 2083–2050 TCN

Triều đại thứ hai của Lagash

Bài chi tiết: Lagash

Khoảng 2093–2046 TCN

Sau khi Đế chế Akkad suy tàn và bị cai trị bởi người Guti, một người Sumer khác là Gudea của Lagash nổi dậy và tiếp tục tự xưng thần thánh như các vị vua triều Sargon. Giống Triều đại Lagash trước đó, Gudea và những hậu duệ của ông cũng khuyến khích phát triển nghệ thuật và để lại một số lượng mẫu vật khảo cổ lớn.

Giai đoạn Ur III

Khoảng 2047–1940 TCN

Sau này, Triều đại thứ ba của Ur dưới sự cai trị của Ur-Nammu và Shulgi, mà sức mạnh mở rộng tới tận miền bắc Lưỡng Hà, là sự "Phục hưng Sumer" cuối cùng, nhưng khi ấy khu vực này đã bị Semit hóa nhiều hơn là Sumer, với sự nổi lên nắm quyền của những người Akkad nói tiếng Semit, và làn sóng người Semit Martu (Amorite) tràn vào, trong bối cảnh nhiều trung tâm quyền lực địa phương cạnh tranh lẫn nhau bao gồm Isin, Larsa, và Babylon. Sau này Babylon chinh phục phía nam Lưỡng Hà, lập nên Đế chế Babylon thứ nhất, giống như Đế chế Assyria đã từng thực hiện ở phía bắc. Ngôn ngữ Sumer tiếp tục được coi là ngôn ngữ của giới tăng lữ được dạy trong các trường học ở Babylon và Assyria, và chữ hình nêm vẫn được sử dụng.

Suy tàn

Giai đoạn này nói chung diễn ra trùng khớp với một sự dịch chuyển dân số lớn từ phía nam tới phía bắc Lưỡng Hà. Về sinh thái học, sản lượng nông nghiệp của các vùng đất Sumer bị ảnh hưởng vì độ mặn ngày càng tăng của đất. Tình trạng mặn hóa đất trong vùng này đã được ghi nhận từ lâu như một vấn đề nghiêm trọng. Những vùng đất được tưới tiêu kém, trong một khu vực khí hậu khô cằn với tỷ lệ bốc hơi cao, dẫn tới việc tích tụ muối hòa tan trong đất, cuối cùng làm giảm mạnh sản lượng nông nghiệp. Trong các giai đoạn Akkad và Ur III, đã có sự dịch chuyển từ trồng lúa mì sang lúa mạch là loại cây chịu muối tốt hơn, nhưng điều này là không đủ, và trong giai đoạn từ năm 2100 tới 1700 TCN, ước tính dân số trong khu vực này đã giảm tới ba phần năm.[41] Điều này làm suy yếu sự cân bằng quyền lực trong vùng, làm giảm vị thế các khu vực nói tiếng Sumer, khiến những khu vực nói tiếng Akkad trở nên mạnh hơn. Vì vậy, tiếng Sumer chỉ còn lại là một thứ ngôn ngữ dùng trong văn học và tôn giáo, tương tự như vị thế của tiếng Latin ở châu Âu thời Trung Cổ.

Sau một cuộc xâm lược của người Elam và cướp bóc Ur trong thời cai trị của Ibbi-Sin (khoảng 1940 TCN), Sumer nằm dưới sự cai trị của người Amorite (bắt đầu giữa thời kỳ đồ đồng). Nền độc lập của các thành bang Amorite ở các thế kỷ 20 đến 18 TCN được gọi tóm tắt là "Triều đại của Isin" trong danh sách các vị vua Sumer, chấm dứt với sự nổi lên của Babylon ở thời Hammurabi khoảng năm 1700 TCN.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Sumer http://members.optusnet.com.au/~gtosiris/page11-4.... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/573176/S... http://books.google.com/?id=dWuQ70MtnIQC&pg=PA51&d... http://books.google.com/?id=i7_hcCxJd9AC&pg=PA147&... http://books.google.com/?id=tupSM5y9yEkC&pg=PA139&... http://books.google.com/?id=zmvNogJO2ZgC&pg=PA505&... http://books.google.com/books?id=BKRE5AjRM3AC&prin... http://books.google.com/books?id=lbmXsaTGNKUC&pg=P... http://books.google.com/books?id=pr8-i1iFnIQC&prin... http://ancientneareast.tripod.com/Sumer.html